Gặp khó tại Mỹ, thủy sản Việt mở lối sang thị trường mới

Thứ hai, 22/09/2025 - 08:15 AM      51

(TSVN) – Sau 6 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản nước ta đã có những thay đổi, mặc dù vẫn ghi nhận tăng trưởng, thế nhưng thị trường trọng điểm Mỹ đang có xu hướng sụt giảm. Khó khăn trước đó cùng thêm quy định mới được ban hành, cánh cửa thị trường Mỹ đang ngày một hẹp lại với thủy sản Việt Nam.

Tăng trưởng dần chậm lại

Thủy sản là ngành mũi nhọn của nền kinh tế, trung bình hàng năm đóng góp khoảng 4 – 5% GDP và là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nông nghiệp Việt Nam. Lũy kế 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 6,2 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam hiện duy trì vị thế một trong ba quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Song áp lực cạnh tranh và sự biến động của thị trường đang tác động đáng kể đến sự tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của ngành. Trong đó, thị trường Mỹ đang có những thay đổi theo chiều hướng không tốt.

Tháng 6/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đạt 131,7 triệu USD, giảm 43,8% so với tháng 5/2025 và giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang nước này đạt 898,7 triệu USD, bằng 49,4% kim ngạch cả năm 2024. Với kết quả đó, Mỹ không còn là thị trường số 1 của thủy sản Việt Nam. Sáu tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ chỉ còn chiếm 17% thị phần, đứng thứ 2 sau Trung Quốc trong số các thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam.

Theo VASEP, chính sách thuế đối ứng của Tổng thống Donald Trump là nguyên nhân chính khiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ sụt giảm. Những thay đổi liên tục các mức thuế gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc lập kế hoạch sản xuất – kinh doanh, ký kết hợp đồng và giao hàng của các doanh nghiệp cả ở Mỹ và các nước xuất khẩu. Điều này khiến các nhà nhập khẩu Mỹ không thể xác định chính xác được chi phí nhập hàng. Trong khi đó, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng gặp khó trong việc điều chỉnh giá, thời điểm giao hàng và lên kế hoạch dài hạn.

Nguy cơ thêm nghiêm trọng

Vừa đối mặt với mức thuế tăng cao tại thị trường Mỹ, thủy sản Việt Nam lại tiếp tục gặp rủi ro vì bị quy kết vi phạm đạo luật bảo tồn của nước này.

Cụ thể, Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) vừa công bố kết quả so sánh theo Đạo luật Bảo vệ Động vật biển có vú năm 2025 và Việt Nam nằm trong danh sách bị hạn chế nhiều mặt hàng cá, cua xuất khẩu sang nước này. Theo kết quả đánh giá, so sánh do NOAA công bố, có khoảng 240 nghề cá từ 46 quốc gia đã bị từ chối kết quả so sánh tương đương. Các thị trường này (trong đó có Việt Nam) sẽ bị cấm xuất khẩu cá và sản phẩm cá từ các ngành thủy sản đó vào Mỹ kể từ ngày 1/1/2026.

Đại diện một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cho biết, cá ngừ và các loại cá nổi đều liên quan đến ngư cụ là lưới vây, mà những loài này chiếm tỷ trọng chi phối trong các mặt hàng hải sản xuất khẩu sang Mỹ.

Để đảm bảo giá trị xuất khẩu, ngành thủy sản cần có chiến lược đa dạng hóa thị trường. Ảnh: ST

Trước đó, Mỹ từng đưa ra quyết định sơ bộ rằng các biện pháp bảo tồn động vật biển có vú của Việt Nam chưa đạt chuẩn đối với 12 phương thức khai thác, trong đó có lưới rê, lưới vây, lưới kéo và câu vàng. Những sản phẩm như cá ngừ mắt to, cá ngừ vây xanh, cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, mực, cá mú, cá thu, cá hồng và cua được cảnh báo sẽ gặp khó khăn khi vào thị trường này.

Hơn nữa, theo kết quả báo cáo của NOAA, mặc dù Việt Nam đã có quy định cấm cố ý giết hại và đang thực hiện các chương trình giám sát như kiểm tra cảng, bắt buộc ghi nhật ký đánh bắt nhưng không phải tất cả các tàu cá đều được giám sát và đều báo cáo việc đánh bắt ngoài ý muốn động vật có vú ở biển. Tuy nhiên, theo đại diện VASEP, để thay đổi thói quen sử dụng ngư cụ khi đánh bắt hải sản là một vấn đề nan giải, không thể giải quyết trong một thời gian ngắn.

Chuẩn bị cho chặng đường mới

Trong nhiều năm qua, Mỹ luôn là một trong những thị trường quan trọng của thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam đang buộc phải xoay trục xuất khẩu do thị trường Mỹ ngày càng khó khăn bởi các quy định bảo tồn động vật biển có vú, thuế quan, biến động chính trị, cạnh tranh, và thay đổi xu hướng tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp buộc phải tìm hướng đi mới, mở rộng thị phần sang các khu vực khác như Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, ASEAN, Trung Đông hay Nam Mỹ…

Ông Trương Đình Hòe, cố vấn VASEP nhận định: “Doanh nghiệp Việt Nam không thể chỉ dựa vào một vài thị trường lớn như Mỹ. Nếu không kịp thời đa dạng hóa, rủi ro sẽ rất lớn khi chính sách thay đổi”.

Đây cũng là cảnh báo của nhiều chuyên gia, bởi nếu tập trung quá nhiều vào thị trường Mỹ, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam dễ rơi vào thế bị động, rủi ro cao khi chính sách thay đổi. Việc đa dạng hóa thị trường trở thành yêu cầu bắt buộc để bảo đảm ổn định xuất khẩu lâu dài.
Thị trường EU có nhu cầu lớn với mặt hàng thủy sản, mức chi tiêu cao, tuy nhiên, khối lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường này còn khá khiêm tốn và gặp nhiều thách thức.

Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần đầu tư chiều sâu cho công nghệ chế biến. Ảnh: ST

Theo đánh giá của VASEP, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU rất lớn, trên 50 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang thị trường này chỉ dao động trên dưới 1 tỷ USD/năm, chiếm một thị phần rất nhỏ. Chưa kể, giá trị xuất khẩu thủy sản sang thị trường này trong thời gian gần đây khá biến động.

Đặc biệt, sau cảnh báo “thẻ vàng” giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường EU sụt giảm bình quân 6 – 10%/năm, hiện đã rơi xuống vị trí thứ 5 (sau Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và ASEAN). Vậy nên, việc tiếp cận EU vẫn là bài toán khó chưa thể tìm được lời giải tối ưu nhất.

Với Trung Quốc, đây hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Vị trí địa lý gần, nhu cầu nhập khẩu cao và ưu thế vận chuyển giúp Trung Quốc trở thành lựa chọn hàng đầu khi doanh nghiệp gặp khó tại Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng là thị trường đầy biến động. Chính sách nhập khẩu của nước này thường xuyên thay đổi, nhất là trong khâu kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc và quản lý biên mậu. Ngoài ra, cạnh tranh từ các nước khác như Ấn Độ, Ecuador (với tôm), hay Nga (cá) rất khốc liệt, việc xâm nhập và bám trụ tại thị trường này không hề dễ dàng.

Ông Nguyễn Văn Kịch, Tổng Giám đốc Công ty Cafatex, phân tích: “Người tiêu dùng Trung Quốc rất đa dạng. Phân khúc giá rẻ giúp duy trì sản lượng, nhưng muốn phát triển lâu dài, Việt Nam phải tập trung sản phẩm cao cấp cho tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh”.

Ngoài những thị trường trọng điểm kể trên, ASEAN và Trung Đông đang được coi là thị trường tiềm năng, cần chiến lược dài hạn.

Trong khu vực ASEAN, các nước như Thái Lan, Singapore, Malaysia hay Philippines là thị trường tiềm năng, nhờ khoảng cách gần và ưu đãi thuế quan trong khối. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có nhiều đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Doanh nghiệp Việt Nam muốn mở rộng cần chú trọng vào sản phẩm chế biến sâu, tiện lợi, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đô thị hiện đại.

Ở Trung Đông, nhu cầu thủy sản nhập khẩu tăng mạnh, đặc biệt các nước vùng Vịnh như UAE, Arab Saudi, Qatar. Đây là thị trường giàu tiềm năng cho các sản phẩm tôm, cá tra và cá ngừ Việt Nam. Tuy nhiên, rủi ro về thanh toán, tập quán tiêu dùng khác biệt và tiêu chuẩn Halal khắt khe đòi hỏi doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ. Đặc biệt, từ giữa tháng 6/2025, xung đột Israel – Iran đã đẩy khu vực này vào vòng xoáy bất ổn, doanh nghiệp Việt Nam càng cần phải cẩn trọng.

Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký VASEP, nhận định: “Trung Đông là thị trường rất hứa hẹn, nhưng doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ về chứng nhận Halal, phương thức thanh toán an toàn, và chiến lược phân phối phù hợp với tập quán tiêu dùng Hồi giáo”.

Những yêu cầu cấp thiết cho cuộc chuyển hướng

Ngành thủy sản Việt Nam trước ngã rẽ, song, cơ hội luôn đi kèm thách thức. Để cuộc chuyển hướng này thành công, ngành cần chuẩn bị nhiều giải pháp từ chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường – xã hội, đến chiến lược xây dựng thương hiệu và đa dạng hóa sản phẩm.
Trong đó, cần nâng cao chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Cụ thể, các thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản đều đòi hỏi sản phẩm có chứng nhận bền vững (ASC, BAP, MSC), truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ nuôi trồng, quản lý vùng nuôi, áp dụng số hóa để minh bạch hóa thông tin.

Thêm vào đó, cần đa dạng hóa sản phẩm và chế biến sâu. Bởi xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang chuyển sang các sản phẩm tiện lợi, chế biến sẵn, thân thiện môi trường. Do đó, các doanh nghiêp thủy sản Việt Nam cần phát triển mạnh sản phẩm giá trị gia tăng thay vì chỉ xuất khẩu thô. Đồng thời, cần xây dựng thương hiệu quốc gia cho thủy sản. Bởi với thương hiệu “Thủy sản Việt Nam” uy tín, gắn với chất lượng và bền vững, sẽ giúp gia tăng giá trị, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

Ngoài ra, các doanh nghiệp rất cần chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Cụ thể, cần có cơ chế tín dụng ưu đãi, hỗ trợ chứng nhận quốc tế, xúc tiến thương mại, đào tạo nhân lực. Chính phủ cũng cần đàm phán các hiệp định thương mại song phương, khu vực để tạo lợi thế cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam.

Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần tăng tốc, phải đầu tư chiều sâu cho công nghệ, phát triển sản phẩm xanh – sạch – bền vững và xây dựng thương hiệu riêng. Đặc biệt, việc nâng cao năng lực cạnh tranh, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, tận dụng thương mại điện tử và học hỏi kinh nghiệm quốc tế được xem là những yếu tố then chốt giúp ngành vươn lên mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu.

Khó khăn tại thị trường Mỹ không chỉ là thách thức, mà còn là động lực để thủy sản Việt Nam thay đổi, hướng tới sự bền vững và đa dạng hơn. EU, Trung Quốc, ASEAN, Trung Đông hay Nam Mỹ đều là những thị trường tiềm năng, nhưng muốn chinh phục, doanh nghiệp và ngành thủy sản Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng từ nâng chất lượng, gỡ rào cản, phát triển sản phẩm đến xây dựng thương hiệu.

Con đường phía trước không dễ dàng, song nếu tận dụng tốt cơ hội và khắc phục hạn chế, thủy sản Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên khẳng định vị thế trong bản đồ xuất khẩu thủy sản thế giới.

Dẫn nguồn: Thuysanvietnam.com.vn-Phan Thảo

Tags:
Ý kiến của bạn