NÂNG CAO GIÁ TRỊ SẢN XUẤT THỦY SẢN

Thứ năm, 21/09/2023 - 02:09 PM      437

Nâng cao giá trị sản xuất thủy sản

(TSVN) – Hiện, giá sản phẩm thủy sản vẫn chưa có nhiều cải thiện, lợi nhuận sản xuất không nhiều, người dân có tâm lý “treo ao” chờ tín hiệu của thị trường; điều này dễ dẫn đến nguy cơ thiếu nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu, ảnh hưởng đến mục tiêu kế hoạch tăng trưởng năm 2023. Trước thực trạng này, Bộ NN&PTNT đã đưa ra nhiều giải pháp để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản những tháng cuối năm.

Sản lượng tăng, lợi nhuận thấp 

Số liệu của Cục Thủy sản chia sẻ tại Hội nghị “Bàn giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trong bối cảnh mới” do Bộ NN&PTNT tổ chức tại Cần Thơ ngày 9/9 cho thấy, diện tích thả nuôi trong 8 tháng: Tôm nước lợ 715.000 ha, tăng 0,9% so cùng kỳ năm 2022 (tôm sú 645.000 ha, tăng 3,9% và tôm thẻ chân trắng 70.000 ha bằng 70,5% cùng kỳ). Sản lượng đã thu hoạch tôm 657.500 tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ, đạt 63,9% kế hoạch (tôm sú 176.100 tấn, tăng 1,2% và tôm thẻ chân trắng 481.400 tấn, tăng 4,9%). Về cá tra, diện tích ước đạt 3.860 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ năm trước; sản lượng thu hoạch 1.079.000 tấn, tăng 0,2%. 

Phân tích của Cục Thủy sản cho biết, giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước khác. Cụ thể: tôm thẻ chân trắng loại 50 con/ kg của Việt Nam giá thành nuôi tối thiểu là 4 USD, khoảng 90.000 đồng; cao hơn của Ấn Độ 1 USD là khoảng 22.000 đồng, hơn Ecuador 1,5 USD là khoảng 33.000 đồng. 

Nguyên nhân do chi phí thức ăn nuôi tôm chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng trên 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; nhiều vùng nuôi thiếu điện phải sử dụng máy nổ với chi phí cao gấp 2 lần so với sử dụng điện lưới. Các cơ sở nuôi nhỏ lẻ thường thiếu vốn sản xuất, phải mua chịu vật tư đầu vào, lãi suất cao (So sánh trên cùng diện tích ao nuôi, kích cỡ tôm thu hoạch và cùng sử dụng thức ăn, thuốc như nhau thì chi phí đầu vào của người nông dân cao hơn khi qua đại lý khoảng 29.500 đồng/kg và 1 vụ nuôi 1.000 kg thì người nông dân mất phần lợi nhuận là 29.500.000 đồng). 

Giá thu mua tôm nguyên liệu tùy theo kích cỡ và loại tôm thu hoạch tại ao, tôm thẻ chân trắng dao động từ 76.000 – 115.000 đồng/kg, tương ứng cỡ tôm 100 đến 40 con/kg. Trong khi chỉ tính riêng chi phí thức ăn nuôi tôm đã dao động từ 67.000 – 82.000 đồng/kg, chưa kể các chi phí khác. Với giá bán nguyên liệu như hiện nay người nuôi tôm chưa có lãi, thậm chí lỗ. 

Về cá tra, giá thu nguyên liệu loại một trung bình 8 tháng đầu năm 2023 dao động ở mức 27.900 – 28.000 đồng/kg, thấp hơn 1.500 – 2.000 đồng/kg so cùng kỳ năm 2022. Với giá này, người nuôi hiện không có lãi. 

Còn nhiều bất cập 

Thông tin tại Hội nghị cho thấy khó khăn lớn nhất trong nuôi tôm là vấn đề tôm giống. Tôm bố mẹ phụ thuộc nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên, trong nước mới cung cấp được một phần nên chưa chủ động được sản xuất. Còn khoảng 40% cơ sở giống chưa được kiểm tra cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống theo quy định của Luật Thủy sản nhưng vẫn được cấp chứng nhận kiểm dịch, ẩn chứa nguy cơ gây bùng phát dịch bệnh. Một số cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản cấp tỉnh được giao nhiệm vụ quản lý nuôi trồng thủy sản nhưng không nắm được số lượng giống kiểm dịch, nguồn gốc xuất xứ. 

Phần lớn hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo: Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản chủ yếu dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, không phù hợp yêu cầu kỹ thuật. Nguồn nước dễ bị ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp. Công nghệ vùng nuôi tôm quảng canh chưa phù hợp, năng suất thấp, hiệu quả sản xuất chưa cao nên diện tích lớn nhưng sản lượng và giá trị không cao. 

Công tác xác nhận đăng ký nuôi và cấp mã số cơ sở nuôi tôm, cá tra chưa đáp ứng yêu cầu. Tổng hợp báo cáo của 46/63 tỉnh: Đã rà soát 42.697/378.861 cơ sở (11,3% tổng số), trong đó có 11.744 cơ sở (chiếm 27,5% số rà soát) không đủ điều kiện cấp mã số (gồm 11.728 cơ sở nuôi tôm nước lợ,11cơ sở nuôi cá tra và 5 cơ sở nuôi lồng bè). Số cơ sở được cấp giấy xác nhận đăng ký là 30.953/378.861 (chiếm 8,17% số rà soát), trong đó có 29.607cơ sở nuôi tôm nước lợ và 956 cơ sở nuôi cá tra. 

Như thế, tính chung đến nay mới có 8,2% cơ sở nuôi tôm nước lợ (29.607/360.762) và 86% cơ sở nuôi cá tra (956/1.112) được cấp mã số. Về diện tích thì cá tra cũng đã có 93,2% tổng diện tích nuôi được cấp giấy xác nhận đăng ký nuôi. Về nuôi tôm nước lợ, địa phương cấp Giấy chứng nhận đăng ký được nhiều nhất là Kiên Giang cũng mới đạt 58,2% (20.329/34.937 cơ sở). 

Giải pháp trong tình hình mới 

Sau tin Nhật Bản xả nước thải từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima, người tiêu dùng Nhật Bản sẽ thận trọng với thủy sản nội địa, các thị trường khác cũng cân nhắc việc nhập thủy sản của Nhật Bản và đặc biệt là Trung Quốc đã cấm. Như thế, cơ cấu xuất, nhập khẩu thủy sản trên thị trường thế giới có sự thay đổi, đây là cơ hội cho thủy sản Việt Nam. Các hiệp định FTA Việt Nam đã ký phát huy lợi thế về thuế. Gói hỗ trợ 15.000 tỷ đồng của Chính phủ sẽ tiếp thêm nội lực cho doanh nghiệp. 

So với kế hoạch cả năm 2023, các tháng cuối năm, ngành thủy sản cần đạt được 372.500 tấn tôm các loại và 540.000 tấn cá tra để đáp ứng nguyên liệu cho xuất khẩu nắm bắt cơ hội mới. Các giải pháp đảm bảo nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu là tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng trừ dịch bệnh, nâng cao hiệu quả nuôi. Tăng cường quản lý điều kiện sản xuất và kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm chuỗi giá trị. Đặc biệt là thực hiện các giải pháp hạ giá thành nuôi thủy sản. Áp dụng kỹ thuật tiên tiến ở tất cả các khâu trong quy trình nuôi để tăng tỷ lệ sống, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR). Tổ chức liên kết sản xuất để giảm khâu trung gian, đảm bảo vật tư đầu vào đến người nuôi nhanh, có giá hợp lý, giảm chi phí sản xuất. 

Dẫn nguồn:thuysanvietnam.com.vn

Tags:
Ý kiến của bạn