Tăng trưởng nhưng chưa bứt phá mạnh
Theo Cục Thủy sản, năm 2024 sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2024 đạt vượt kế hoạch đề ra với diện tích nuôi đạt 749.800 ha, (tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2023); sản lượng nuôi tôm nước lợ năm 2024 đạt gần 1,3 triệu tấn (tăng 15,3 % so với cùng kỳ năm 2023); trong đó, sản lượng tôm sú đạt 338.800 tấn và tôm thẻ chân trắng đạt 951.700 tấn.
Đóng góp lớn cho thành tích sản lượng và kim ngạch xuất khẩu phải kể đến sự thành công của những mô hình nuôi tôm bán thâm canh, siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao. Trong khi chỉ chiếm 19,2% về diện tích, nhưng các mô hình này đóng góp đến 78,5% về sản lượng.
Đánh giá về vụ tôm năm 2024, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, đây là năm rất khó khăn nhưng thủy sản nói chung và ngành tôm nói riêng vẫn có sự tăng trưởng ấn tượng cả về sản lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách toàn diện thì ngành tôm vẫn còn 1 số chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật chưa có sự bứt phá mạnh, nhất là tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất giống khiến tỷ lệ nuôi thành công thấp; dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, môi trường ô nhiễm… làm cho tôm chậm lớn, hệ số thức ăn tăng cao… Tất cả làm cho giá thành sản xuất tôm Việt Nam cao hơn các nước đến sức cạnh tranh thấp, hiệu quả ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng, đặc biệt là ở khâu nuôi.
Chưa hài lòng với kết quả hiện tại, ông Lê Văn Sử – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho rằng, những năm gần đây, ngành tôm Cà Mau nói riêng và các tỉnh ven biển nói chung đều có sự tăng trưởng, nhưng nếu nhìn kỹ lại sẽ thấy gần như Việt Nam vẫn chỉ loanh quanh ở con số kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD trở lại. Điều này cho thấy, sự phát triển của ngành tôm thời gian qua còn rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế mà nước ta đang có.
Riêng đối với Cà Mau, qua ghi nhận có thể thấy, việc tăng năng suất các mô hình nuôi còn khá chậm, thậm chí một số mô hình như: Quảng canh, quảng canh cải tiến năng suất có phần đi lùi. Do đó, trong vụ tôm năm 2025, Cà Mau đặt mục tiêu phấn đấu nâng năng suất mô hình quảng canh cải tiến lên 450 – 650 kg/ha gắn với tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi giá trị.
Năm 2025: Tiếp tục tăng tốc
Theo dự báo, năm 2025 tiếp tục là một năm khó, nhưng cũng là năm ngành tôm tập trung tăng tốc để bước sang giai đoạn 2026 – 2030 sẽ đạt mức tăng trưởng 2 con số. Theo đó, trong vụ tôm nước lợ năm 2025, Cục Thủy sản đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chính, như: diện tích nuôi tôm là 750.000 ha (tôm sú 630.000 ha, TTCT 120.000 ha); sản lượng tôm các loại 1,3 – 1,4 triệu tấn; trong đó, tôm sú 350.000 tấn, tôm thẻ chân trắng hơn 1 triệu tấn; nhu cầu tôm giống khoảng 140 – 150 tỷ con.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Thủy sản đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chính, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc phát triển ngành tôm theo hướng xanh, tuần hoàn ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu có liên quan trong chuỗi giá trị; áp dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường về bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật và có trách nhiệm xã hội.
Làm rõ thêm cơ sở cho mục tiêu tăng tốc trong năm 2025, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn chứng dư địa để gia tăng sản lượng tôm nuôi: “Hiện nay, diện tích nuôi thâm canh, siêu thâm canh chỉ mới chiếm khoảng 19,2% nhưng đóng góp đến 78,5% sản lượng, nên chỉ cần chúng ta có giải pháp, chính sách khuyến khích phát triển các mô hình nuôi tôm hiệu quả theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nuôi tôm tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính… thì sản lượng và giá trị của ngành tôm sẽ còn lớn hơn nữa. Vì vậy, cần có những tổng kết, đánh giá để chọn mô hình phù hợp với từng điều kiện sinh thái, từng quy mô để việc nhân rộng được dễ dàng và hiệu quả”.
Thế giới luôn thay đổi cả về thương mại, nhu cầu lẫn xung đột và cùng với đó là những vấn đề nội tại, như: Môi trường, dịch bệnh, hạ tầng, quy mô nuôi nhỏ lẻ, hợp tác và liên kết… tất cả đều là những thách thức không hề nhỏ của ngành tôm. Do đó, Thứ trưởng đề nghị toàn ngành và các địa phương cần tập trung phân tích, đánh giá và tìm ra giải pháp đồng bộ để giải quyết những khó khăn của ngành tôm, nhằm giúp ngành tôm bứt phá trong năm 2025; trong đó, tập trung vào các điểm nhấn quan trọng là: Con giống, mô hình, tổ chức và liên kết sản xuất.
Thứ trưởng nhấn mạnh: “Tuy còn nhiều khó khăn nhưng không có gì chúng ta không thể làm được nếu tất cả cùng chung tay thực hiện trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị. Trước mắt, cần tập trung quan tâm nhiều hơn đến vùng nuôi để làm sao có được tỷ lệ thành công cao, giá thành hợp lý, sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường cho người nuôi”.
Hợp tác, kiên kết chuỗi giá trị
Trong bối cảnh kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát thải thấp… đang là xu thế tất yếu chung của thế giới, ngành tôm không có con đường nào khác là phải thực hiện theo xu thế này thì mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh trong ngành. Vấn đề an toàn sinh học cũng rất quan trọng vì hầu hết các thị trường hiện đều yêu cầu vấn đề này rất gắt gao.
Vì vậy, nếu nước ta không tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết trên cơ sở hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro của các bên liên quan thì sẽ rất khó đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này. Việc hợp tác, liên kết thời gian qua vẫn còn hết sức khó khăn mà nguyên nhân là các bên tham gia chưa thể tìm tiếng nói chung trong việc.
“Để có thể hình thành nên những chuỗi liên kết hoàn chỉnh, thực chất và hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu từ thị trường cần có cơ chế đặc thù cho con tôm, về: Chính sách đất đai, con giống, thức ăn, khoa học công nghệ…”, Thứ trưởng lưu ý.
Về phần mình, ông lê Văn Quang – Chủ tịch tập đoàn Tôm Minh Phú nhìn nhận, do tỷ lệ nuôi nhỏ lẻ nhiều nên nhiều vùng nuôi không có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt làm cho môi trường ô nhiễm, dịch bệnh phát sinh và dễ lây lan, dẫn đến tỷ lệ nuôi thành công thấp, giá thành cao, tính cạnh tranh của con tôm Việt Nam giảm sút, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
Muốn nuôi tôm được giá thành thấp nhưng vẫn có lời, các hộ nuôi trồng cần thay đổi cách tiếp cận theo hướng quản trị rủi ro, không phải quản lý rủi ro như trước đây. Và, chỉ có hợp tác, liên kết tốt thì mới giải được bài toán năng suất, giá thành và tiến tới phát triển xanh, bền vững.
“Doanh nghiệp lúc nào cũng luôn mong muốn người nuôi thành công để có đủ tôm chế biến với giá thành hợp lý, bởi nếu người nuôi thất bại nhiều, hoặc nuôi không có lời, buộc phải ngưng nuôi thì doanh nghiệp cũng khốn khó”, ông Quang phân tích.
Xuân Trường