Ảnh hưởng của độ kiềm lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôn sú giống ương theo công nghệ biofloc

Thứ hai, 04/08/2025 - 07:30 AM      66

(TSVN) – Việc tìm ra độ kiềm thích hợp nhất để ương giống tôm sú là rất cần thiết, góp phần vào quy trình ương giống tôm sú theo công nghệ biofloc, tạo ra con giống lớn chất lượng cao phục vụ cho nghề nuôi tôm phát triển bền vững.

Tính cấp thiết

Ngành nuôi tôm nước lợ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế ngành thủy sản Việt Nam. Nổi bật là tôm sú (Penaeus monodon) loài có kích thước lớn, tăng trọng nhanh, thịt thơm ngon.

Với chặng đường dài phát triển, nghề nuôi tôm sú đã có sự cải tiến về mô hình cũng như kỹ thuật nuôi. Cụ thể, đến thời điểm hiện tại, kỹ thuật nuôi tôm sú hai giai đoạn mang lại hiệu quả cao giúp tăng trưởng đáng kể về sản lượng, đồng thời hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.

Trong ương giống tôm sú có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm. Trong đó, độ kiềm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hệ đệm trong môi trường nước ương tôm, giúp ổn định pH nước. Khi độ kiềm trong môi trường nước thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố thủy lý, thủy hóa và ảnh hưởng đến tôm.

Độ kiềm ảnh hưởng đến quá trình lột xác và tăng trưởng của tôm. Cụ thể, độ kiềm quá thấp, tôm lột xác sẽ khó cứng vỏ và ngược lại, độ kiềm quá cao thì ấu trùng cũng như hậu ấu trùng tôm sẽ chậm lớn hoặc khó lột xác, thậm chí lột xác không thành công dẫn đến bị chết.

Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu ứng dụng công nghệ biofloc vào ương giống tôm sú mang lại kết quả rất khả quan như: ương tôm sú giống ở mật độ 2.000 con/m3 là tốt nhất (Tran & Le, 2016) hay ương giống tôm sú đạt tỷ lệ sống (95,5 ± 2,1%) và năng suất (573 ± 13 con/m3) cao ở độ mặn từ 10 – 20‰ (Chau et al., 2020). Theo Tảo (2015), ương ấu trùng tôm sú độ kiềm thích hợp từ 100 – 120 mg CaCO3/L. Tuy nhiên, hiện quá trình ương tôm sú trong kỹ thuật nuôi tôm hai giai đoạn vẫn còn một số vấn đề bất cập.

Do đó, việc tìm ra độ kiềm thích hợp nhất để ương giống tôm sú là rất cần thiết, góp phần vào quy trình ương giống tôm sú theo công nghệ biofloc, tạo ra con giống lớn chất lượng cao phục vụ cho nghề nuôi tôm phát triển bền vững.

Phương pháp nghiên cứu

Nguồn nước thí nghiệm: Nước ót độ mặn 90‰ và nước ngọt lấy từ nước máy thành phố. Nước dùng trong thí nghiệm có độ mặn 15‰ được pha từ 2 nguồn nước trên, sau đó được xử lý bằng Chlorine với nồng độ 30 ppm, sục khí mạnh từ 2 đến 3 ngày, đến khi hết lượng Chlorine trong nước, tiến hành nâng độ kiềm lên phù hợp cho từng nghiệm thức, sau đó bơm nước qua túi lọc 5 μm vào bể ương trước khi bố trí tôm.

Tôm sú giống được sản xuất tại trại thực nghiệm nước lợ Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, được thuần dưỡng cho phù hợp với độ kiềm của từng nghiệm thức. Sau đó, những con tôm có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh được chọn để bố trí thí nghiệm.

Cách tạo biofloc: Dùng nguồn carbon từ mật rỉ đường có hàm lượng C là 46,7% để tạo biofloc. Mật rỉ đường hòa với nước 15‰ rồi ủ 24 giờ với vi sinh SUPER EM.S với lượng 1 g/m3 (Vi sinh có thành phần: Bacillus subtilis (2×105 CFU/kg), Lactobacillus acidophilus (2×105 CFU/kg), Saccharomy cescerevisiae (2×105 CFU/kg), Nitrosomonas sp. (2×105 CFU/kg), Nitrobacter sp. (2×104 CFU/kg), chất mang vừa đủ 1 kg), sau đó bổ sung trực tiếp vào bể ương. Tùy vào lượng thức ăn nhân tạo sử dụng cho tôm mà lượng mật rỉ đường được thêm vào để đạt tỷ lệ C:N = 10:1 (Chau et al., 2019). Mật rỉ đường được bổ sung 1 ngày/lần vào lúc 14:30 với hàm lượng cần bổ sung vào bể để tạo biofloc được tính dựa trên công thức của Avnimelech (2015).

Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với 3 lần lặp lại, cách bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mật độ 2.000 con/m3, độ mặn 15‰, bể ương có thể tích 250 L, và thời gian ương là 28 ngày:

– Nghiệm thức 1: Độ kiềm ở mức dao động trong khoảng 80 mg CaCO3/L;

– Nghiệm thức 2: Độ kiềm ở mức dao động trong khoảng 120 mg CaCO3/L;

– Nghiệm thức 3: Độ kiềm ở mức dao động trong khoảng 160 mg CaCO3/L;

– Nghiệm thức 4: Độ kiềm ở mức dao động trong khoảng 200 mg CaCO3/L.

Chăm sóc và quản lý

Tôm được cho ăn 6 lần/ngày (6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 15 giờ, 18 giờ và 21 giờ) bằng thức ăn viên công nghiệp dành cho tôm sú (42% protein), lượng thức ăn cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất và cùng với đó là dựa vào quan sát lượng thức ăn hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp. Trong suốt quá trình ương không thay nước, khí được sục liên tục để cung cấp ôxy cho tôm và đảm bảo sự lơ lửng của hạt biofloc. Sodium bicarbonat (NaHCO3) được sử dụng để điều chỉnh độ kiềm cho phù hợp với từng nghiệm thức trước khi bố trí tôm sú giống. Sau đó, độ kiềm được định kỳ theo dõi 7 ngày/lần, để đảm bảo duy trì gần đúng giá trị độ kiềm của từng nghiệm thức.

Kết quả

Trong thời gian thí nghiệm, các chỉ tiêu môi trường nước như: Nhiệt độ, pH, độ kiềm, nitrite, hàm lượng TAN đều nằm trong giới hạn thích hợp cho sinh trưởng của tôm.

Chỉ tiêu biofloc: Sau 28 ngày ương, chiều dài và rộng của các hạt biofloc dao động từ 1.263 đến 1.356 μm (chiều dài) và 850 – 892 μm (chiều rộng). Trong đó, nghiệm thức 160 mg CaCO3/L có kích thước biofloc lớn nhất (1.356 ± 36 μm – 892 ± 97 μm) và nghiệm thức 80 mg CaCO3/L có kích thước biofloc nhỏ nhất (1.263 ± 39 μm – 850 ± 82 μm). Tuy nhiên, kích thước biofloc của từng nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Tăng trưởng tôm sú: Tôm sú bố trí thí nghiệm với chiều dài ban đầu 1,25 cm, tương đối đồng đều giữa các nghiệm thức. Sau 28 ngày ương, chiều dài tôm ở các nghiệm thức dao động từ 3,66 đến 4,03 cm. Cụ thể, nghiệm thức 120 mg CaCO3/L tôm có chiều dài cao nhất (4,03 ± 0,01 cm), tiếp đến là nghiệm thức 80 mg CaCO3/L (3,78 ± 0,02 cm) và nghiệm thức 200 mg CaCO3/L có chiều dài thấp nhất (3,66 ± 0,03 cm), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức.

Tăng trưởng khối lượng: Sau 28 ngày ương, tôm ở nghiệm thức 120 mg CaCO3/L đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng tương đối và tuyệt đối của tôm cao nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.

Tỷ lệ sống và sinh khối của tôm: Tỷ lệ sống của tôm là chỉ tiêu quan trọng, đánh giá kết quả của nghiên cứu và hiệu quả của mô hình ương theo công nghệ biofloc, kết thúc thí nghiệm, tỷ lệ sống của tôm ở từng nghiệm thức đạt từ 78,5 đến 90,2%. Tỷ lệ sống của tôm đạt cao nhất ở nghiệm thức 120 mg CaCO3/L (90,2 ± 2,12%), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại.

Tương ứng với tỷ lệ sống, sinh khối của tôm sau khi kết thúc 28 ngày ương của từng nghiệm thức dao động trong khoảng 1.571 – 1.803 con/m3. Nghiệm thức 120 mg CaCO3/L với lợi thế tỷ lệ sống cao tiếp tục là nghiệm thức có sinh khối lớn nhất (1.803 ± 43 con/m3) khác biệt có ý nghĩa thống kê với các nghiệm thức còn lại.

Kết luận

Sau 28 ngày ương, các chỉ tiêu nhiệt độ, pH, độ kiềm, nitrite và TAN đều nằm trong phạm vi thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt. Thể tích biofloc và kích cỡ hạt biofloc lớn dần theo thời gian ương và cũng nằm trong khoảng thích hợp cho tôm phát triển tốt. Tôm ở nghiệm thức độ kiềm 120 mg CaCO3/L có tăng trưởng, tỷ lệ sống và sinh khối tốt nhất so với các nghiệm thức còn lại.

Dẫn nguồn: thuysanvietnam.com.vn
Huỳnh Hoàng Sơn và Châu Tài Tảo

Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ

Tags:
Ý kiến của bạn
Tin xem nhiều
Quản lý pH ao nuôi mùa mưa
Thứ sáu, 18/07/2025 - 07:30 AM
77