Từ năm 2020, tại các trại giống ở Trung Quốc xuất hiện bệnh mới với tên gọi bệnh mờ đục (TPD) hay còn gọi với tên khác là bệnh thủy tinh (GPD) trên hậu ấu trùng TTCT, gây thiệt hại lớn về sản lượng tôm giống (Zou et al., 2020). TPD xuất hiện ở giai đoạn từ PL4 – 7 và độc lực cao hơn nhiều so với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với tỷ lệ chết trên 90% trong 3 ngày cảm nhiễm (Zou et al., 2020).

(A và B) Khuẩn lạc vi khuẩn trên môi trường TCBS; (C và D) Khuẩn lạc vi khuẩn trên môi trường ChromagarTM Vibrio và vi khuẩn nhuộm màu gram âm, hình que ngắn (100X).
Hiện nay TPD được nghi ngờ đã xuất hiện ở các trại tôm giống và trại nuôi thương phẩm (giai đoạn đầu sau thả giống) gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi tôm trong nước.
Tóm tắt nghiên cứu
Thí nghiệm cảm nhiễm được thực hiện tại phòng cảm nhiễm tôm tại Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ sử dụng bể thủy tinh (thể tích 30 L). Nước dùng cho thí nghiệm có độ mặn 15 ppt được khử trùng bằng Chlorine với nồng độ (30 ppm), sục khí liên tục để loại Chlorine.
Tôm sử dụng cho thí nghiệm cảm nhiễm là TTCT (Litopenaeus vannamei) giai đoạn PL12 – 15, khỏe mạnh được sản xuất tại Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Tôm được bố trí 150 con/nghiệm thức (chia thành 3 bể/nghiệm thức, 50 con tôm/bể (chứa 10 L nước có độ mặn 15 ppt). Thí nghiệm cảm nhiễm được bố trí gồm 4 nghiệm thức: (1) Đối chứng, không cảm nhiễm với vi khuẩn; (2) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp36 gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND) (Oanh et al., 2023); (3) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp4-24 (mật độ 5 x 102 CFU/ml); (4) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp4-24 (mật độ 103 CFU/ml). Tôm được gây cảm nhiễm bằng cách cho dung dịch vi khuẩn vào bể thí nghiệm. Trong quá trình thí nghiệm cho tôm ăn bằng thức ăn viên theo nhu cầu. Các chỉ tiêu môi trường được đo gồm pH, NH3/NH4+, hàm lượng ôxy hòa tan (DO) và nhiệt độ. Biểu hiện bệnh lý của tôm và số tôm chết được ghi nhận hàng ngày.

Hình 2: Phát hiện gen tlh (Oanh et al., 2018) (trái) và gen vhvp-1 và vhvp-2 (Liu et al., 2023) (phải) của V. parahaemolyticus từ chủng vi khuẩn phân lập được.
Chọn tôm còn sống, có biểu hiện lờ đờ, khi quan sát bên ngoài thấy gan tụy teo, nhợt nhạt, ruột giữa và dạ dày trống để phân tích mô bệnh học nhằm quan sát sự biến đổi cấu trúc mô gan tụy ở mức độ tế bào. Mẫu tôm bệnh được ngâm trực tiếp vào dung dịch cố định Davidson’s (AFA) với tỷ lệ 1:10 từ 24 – 48 giờ sau đó chuyển sang cồn 70° để bảo quản. Tiêu bản mô bệnh học được thực hiện theo phương pháp của Lightner (1996) và đọc kết quả theo Lightner et al. (2012), quan sát dưới kính hiển vi ở các vật kính khác nhau. Chụp hình các tiêu bản đặc trưng.
Kết quả
Vi khuẩn phân lập được là vi khuẩn Gram âm, hình que ngắn, di động, dương tính với các chỉ tiêu oxidase và catalase, lên men đường trong điều kiện hiếu khí và kỵ khí, có khả năng phát triển trên môi trường thiosulfate citrate bile salt với khuẩn lạc màu xanh, tròn, lồi và đường kính 2 – 3 mm.
Dựa vào các đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và kết quả của kít API 20E, các chủng vi khuẩn được định danh là V. parahaemolyticus. Kết quả này tương tự như ghi nhận của Oanh et al. (2018) về các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus phân lập từ TTCT.
Kết quả PCR ghi nhận chủng vi khuẩn dương tính với gen tlh của V. parahaemolyticus (Oanh et al., 2018). Đồng thời cũng phát hiện gen vhvp 1 (351 bp) và vhvp 2 (303 bp và 362 bp). Chủng V. parahaemolyticus phân lập được từ nghiên cứu này có mang gen độc lực cao vhvp 1 và vhvp 2 tương tự chủng V. parahaemolyticus gây TPD do Liu et al. (2023) công bố. Vi khuẩn có khả năng gây bệnh ở hậu ấu trùng TTCT khi cảm nhiễm ngâm với mật độ 103 CFU/ml với dấu hiệu bệnh lý và mô bệnh học giống như tôm bệnh thu từ trại giống.
Đặng Thị Hoàng Oanh
Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ