Tôm thẻ chân trắng được di nhập vào Việt Nam từ 2001, bắt đầu mở rộng diện tích nuôi từ năm 2004 và diện tích và sản lượng ngày càng gia tăng qua các năm. Theo tổng cục thủy sản tính đến tháng 8 năm 2019 diện tích thả nuôi tôm chân trắng là 88.941 ha và sản lượng thu hoạc tôm chân trắng 282.828 tấn cao hơn so với cùng kỳ năm 2018. Tuy nhiên, tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình dịch bệnh điển hình như bệnh đốm trắng đỏ thân, phân trắng, EMS gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Do đó, ứng dụng công nghệ biofloc để cải thiện chất lượng nước và khống chế dịch bệnh là một biện pháp khả quan và áp dụng thành công đầu tiên tại Ninh Thuận, năm 2012.
Công nghệ biofloc là kết quả của quá trình thử nghiệm và phát triển hệ thống ao nuôi được sục khí và khuấy đảo thường xuyên, không hoặc hạn chế thay nước. Cơ sở hình thành hệ thống này chính là các hạt floc. Hạt floc là khối kết dính của các loại vi khuẩn, tảo, động vật nguyên sinh, các mảnh vỡ của các phân tử hữu cơ và một số sinh vật khác. Vấn đề mấu chốt trong công nghệ biofloc là tạo điều kiện tối ưu để vi sinh vật dị dưỡng có lợi phát triển, hấp thụ amonium, tạo sinh khối làm thức ăn cho vật nuôi.
Vi sinh vật dị dưỡng sử dụng carbon hữu cơ được bổ sung và nguồn nitơ thải ra từ thức ăn để tổng hợp nên protein. Nếu bổ sung C với tỉ lệ thích hợp sẽ tăng cường quá trình chuyển hóa nitơ vô cơ thành protein trong sinh khối vi sinh vật. Carbon hữu cơ thường được bổ sung thông qua các carbohydrate như: tinh bột, rỉ đường, cám gạo, glycerol... Tuy nhiên, việc mở rộng nghiên cứu về việc sử dụng các nguồn carbohydrate rẻ tiền khác như: bột ngô, bột gạo, bột mì, bột đậu xanh, bột kê... chưa được nghiên cứu nhiều. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của các nguồn carbohydrate khác nhau đến chất lượng nước, hiệu suất tăng trưởng và điều hòa miễn dịch ở tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương và tìm ra chất thay thế cho mật rỉ trong hệ thống biofloc.
Nghiên cứu ứng dụng nguồn Carbohydrate khác nhau trong hệ thống biofloc
Thí nghiệm bao gồm 8 nghiệm thức với các nguồn carbon khác nhau, C1 (bột maida hay còn gọi là bột mì trắng), C2 (bột mì), C3 (bột đậu xanh), C4 (bột kê), C5 (bột gạo), C6 (bột ngô), C7 (mật rỉ), C8 (bột ngũ cốc) và C0 đối chứng không được bổ sung đã . Cá con tôm có trọng lượng trung bình 1 g được thả với tốc độ 300 nos / m 3.
Kết quả
Tôm được nuôi trong các phương pháp bổ sung bột kê, rỉ mật và bột ngũ cốc có tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và khả năng kháng bệnh cao hơn so với đối chứng và các phương pháp điều trị khác.
Thông số miễn dịch như tổng hemocyte count (THC) và prophenoloxidase (ProPO) cao hơn đáng kể (P <0,05) so với các nhóm bổ sung nguồn cacbon khác.
Các nghiệm thức bổ sung nguồn cacbon đều tăng cường hoạt động proPO và hoạt động chống oxy hóa (SOD, MnSOD, CAT) cao hơn so với nghiệm thức đối chứng.
Qua nghiên cứu thấy được có thể sử dụng bột kê và bột ngũ cốc để thay thế hiệu quả mật rỉ như nguồn carbohydrate cho hệ thống biofloc vừa cải thiện chất lượng nước vừa kích thích tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống và tăng cường miễn dịch, đồng thời giảm thiểu chi phí trong quá trình nuôi. Đồng thời ứng dụng vào kiểm soát và quản lí dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm hiện nay.
Theo:tepbac.com