1. Lựa chọn địa điểm
- Nên chọn nơi giao thông thuận tiện, có điện lưới, đảm bảo an ninh;
- Bờ ao chắc chắn, giữ được nước, có cống cấp và cống thoát nước. Chất đáy cát bùn, bùn cát;
- Ao nuôi nằm ở vùng cao triều hoặc trung triều, nơi có nguồn nước sạch không bị ô nhiễm do chất thải nông, công nghiệp và sinh hoạt;
- Ao có mức nước sâu trên 1 m;
- Diện tích ao nuôi > 3.000 m2.
2. Chuẩn bị ao nuôi
a, Cải tạo ao
- Tháo cạn nước. Nếu cần, đào mương thoát ở giữa ao hoặc xung quanh ao sao cho dốc về phía cửa thoát để nước chảy ra dễ dàng; Phơi khô cho đến khi đất đáy ao nứt ra để thúc đẩy nhanh quá trình ôxy hóa, giải phóng khí độc và khử các loài vi sinh vật không cần thiết; Vét bùn đáy và mang ra xa ao để đề phòng không chảy ngược lại ao khi có mưa lớn.
- Thau rửa ao bằng cách lấy nước vào đến độ sâu 30 cm, giữ trong 24 giờ rồi tháo ra; Gia cố cống, làm đăng lưới chắn quanh cống, phía trong ao. Tu sửa lại những nơi xung yếu, lấp hết những lỗ mọi để tránh thất thoát nước, thẩm lậu.
- Ao có đăng chắn quanh bờ bằng lưới nylon loại thưa hoặng đăng tre... nghiêng về phia trong ao một góc 600, đăng phải cao từ 0,8 - 1 m; Trong ao nên bỏ chà cho cua ẩn nấp, cắm chà đều khắp ao, số lượng nhiều hơn ở khu vực gần bờ.
b, Bón vôi
Sau khi cải tạo ao, tiến hành bón vôi nhằm tiêu diệt mầm bệnh. Tùy vào giá trị pH đất ở mỗi ao nuôi khác nhau mà ta tiến hành bón lượng vôi khác nhau:
c, Gây màu nước: Hai ngày sau khi cấp nước vào ao nuôi, gây màu nước bằng cách:
Cách 1: Bằng cám ủ (cám gạo, bột đậu nành, bột cá phối trộn theo tỷ lệ 2:2:1. Nấu chín, ủ trong 2 - 3 ngày).
+ Bước 1: Lúc 7 - 8h sáng: bón vôi đen Dolomite CaMg(CO3)2 hoặc vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 100 - 150 kg/1.000 m3.
+ Bước 2: Lúc 10 - 12h trưa: bón cám ủ liều lượng 3 - 4 kg/1.000 m3. Lặp lại liên tục trong 3 - 5 ngày đến khi độ trong của nước đạt 30 - 40 cm.
Cách 2: Bằng mật đường + cám gạo + bột đậu nành (tỷ lệ 3:1:3) ủ trong 12 giờ. Lúc 9 - 10h sáng: bón mật đường + cám gạo + bột đậu nành đã qua ủ với liều lượng 2 - 3 kg/1.000 m3 nước ao, tạt liên tục 3 ngày.
Các chỉ tiêu môi trường trước khi thả: ôxy hòa tan: > 4 ppm; NH3: < 0,1 ppm; pH nước: 7,5 - 8,5; độ trong: 30 - 40 cm; nhiệt độ: 28 - 320C; độ mặn: 10 - 25‰; độ sâu của nước: 1 - 1,5 m; màu nước: xanh lá cây pha nâu.
3. Chọn và thả giống
a, Chọn giống
- Cua giống có kích thước đồng đều, linh hoạt, không bệnh tật, dị hình; màu sắc tươi sáng, đầy đủ các phần phụ và khỏe mạnh. Cua có chiều rộng mai từ 0,5 - 0,7 cm.
- Cá dìa giống có màu sắc tươi sáng, không dị hình, không bị xây xát, lở loét. Cá hoạt động linh hoạt, bơi lội nhanh nhẹn, kích cỡ tốt nhất 4 - 6 cm.
b, Thả giống
- Mật độ thả giống: cua 2 con/m2, cá dìa 0,2 con/m2;
- Cua 1, 2 kích cỡ 0,5 - 0,7 cm sau 20 ngày thả nuôi đạt kích cỡ khoảng 2 cm thì sau đó mới tiến hành thả cá dìa;
- Trước khi thả giống cần so sánh các yếu tố môi trường (pH, độ mặn, độ kiềm...) giữa trại giống và ao nuôi để khi thả giống ta thực hiện điều chỉnh môi trường, tránh gây sốc cho đối tượng nuôi;
- Nên thả giống xuống ao nuôi vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Chọn đầu hướng gió để thả;
- Đối với cua, thả ở nhiều điểm trong ao để cua tự bò xuống. Những con yếu thường nằm tại chỗ hoặc bò chậm, ta thu lại cho vào giai để theo dõi, nếu phục hồi thì thả xuống.
4. Chăm sóc và quản lý
a, Thức ăn và cách cho ăn: Chỉ cho ăn đối tượng nuôi chính là cua
- Đối với cá dìa, ngoài nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao như rong, tảo, thức ăn thừa của cua. Chúng ta nên bổ sung thêm các loại rong như: rong tơ (Cladophora sp), rong lông cứng (Chaetomorpha sp), rong ống (Enteromorpha tubulosa), rong diếp (Ulva sp)... để làm nguồn thức ăn cho cá.
+ Rong được thả trong khung nổi trên mặt nước đặt cách bờ 1,5 - 2 m;
+ Lượng thức ăn chiếm 30 - 40% trọng lượng cá có trong ao;
+ Thường xuyên quan sát khả năng sử dụng thức ăn, tình trạng sức khỏe của cá và thời tiết để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp;
+ Định kỳ kiểm tra sự tăng trưởng của cá bằng cách lấy mẫu để đo chiều dài và cân trọng lượng.
Thức ăn cho cua trong 7 ngày đầu: Thành phần: cá tạp (80%), tôm (15%), dầu mực (1%), trứng gà (3%), khoáng vi lượng (1%). Tất cả các nguyên liệu được trộn đều và xay mịn, sau đó hấp cách thủy. Thức ăn được cà qua mắc lưới phù hợp rồi tạt đều xung quanh ao. Ngày cho ăn 4 lần vào các thời điểm: 8h, 11h, 17h và 22h. Lượng thức ăn chiếm từ 6 - 8% trọng lượng đàn cua.
Từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 15: Thành phần: cá tạp (95%), dầu mực (1%), trứng gà (3%), khoáng vi lượng (1%). Tất cả được hấp chín rồi cà qua mắc lưới phù hợp để làm thức ăn cho cua. Ngày cho ăn 4 lần vào các thời điểm: 8h, 11h, 17h và 22h. Lượng thức ăn chiếm từ 6 - 8% trọng lượng đàn cua.
Sau ngày thứ 15: Cua đạt kích cỡ 1,5 - 2 cm, cho cua ăn bằng thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyễn thể hai mảnh vỏ... được băm nhỏ và hấp chín. Lượng thức ăn hàng ngày chiếm 4 - 6% trọng lượng đàn cua.
Sau 30 ngày: Cua đạt trọng lượng 5 - 7 g, chiều rộng mai cua từ 2,5 - 3,5 cm. Tỷ lệ sống đạt từ 70 - 75%. Thức ăn chủ yếu là: cá vụn, ốc, đầu cá... được hấp chín. Cho cua ăn 2 lần/ngày (sáng sớm và chiều tối), lượng thức ăn tăng gấp đôi vào buổi chiều tối, thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh nhau. Lượng thức ăn hàng ngày chiếm 4 - 6% trọng lượng đàn cua. Thường xuyên kiểm tra khả năng bắt mồi của cua để có chế độ tăng giảm nguồn thức ăn hợp lý. Nên dùng nhá để kiểm tra thức ăn sau khi cho ăn khoảng 2 - 3 giờ (điều tiết lượng thức ăn sau mỗi ngày). Tránh tình trạng cua bị thiếu thức ăn, cua đói sẽ tranh ăn và cua lớn sẽ ăn thịt cua bé, gây hao hụt.. Vì vậy, cần dự trữ thức ăn khô (cá khô), những ngày không có thức ăn tươi có thể dùng thức ăn khô.
Bảng 2: Lượng thức ăn hàng ngày cho 10.000 cua giống san 30 ngày nuôi
b, Quản lý ao nuôi
Quản lý môi trường:
- Duy trì độ sâu mực nước ao nuôi trên 1 m, lý tưởng nhất là 1,5 m; màu nước nên có màu xanh lá cây pha nâu, nâu vàng hoặc xanh; pH nên duy trì trong khoảng 7,5 - 7,8 là tốt nhất.
- Mỗi ngày thay nước từ 20 - 30% lượng nước trong ao. Một tuần nên thay toàn bộ nước trong ao một lần. Nước trong sạch sẽ kích thích cua hoạt động, ăn nhiều và lột xác tốt.
Theo dõi tăng trưởng:
- Định kỳ 2 tuần/lần bắt cua và cá dìa để cân, đo kích thước nhằm theo dõi tốc độ sinh trưởng của cua và cá dìa. Nếu phát hiện có dấu hiệu bệnh thì cần tìm rõ nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Thời gian cuối vụ nuôi, khối lượng cua, cá trong ao tăng lên. Vì thế, lượng thức ăn cho vào ao nuôi ngày càng nhiều hơn nên ao nuôi rất dễ ô nhiễm. Đó là lý do chúng ta nên thường xuyên thay nước, kiểm tra môi trường ao nuôi.
Công tác bảo vệ chống thất thoát:
- Thường xuyên kiểm tra ao, kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào chắn tránh thất thoát cua;
- Khi cua nuôi được 3 - 4 tháng thì thường hay bò ra khỏi ao. Thông thường cua bò ra khỏi ao là do một trong các nguyên nhân sau: mật độ cua quá dày, cua thiếu thức ăn, thời tiết thay đổi;
- Thường xuyên kiểm tra, loại bỏ cua chết ra khỏi ao nuôi.
5. Phòng bệnh và địch hại
Phòng bệnh: Chọn con giống tốt, có nguồn gốc rõ ràng và không mang mầm bệnh. Mật độ thả nuôi hợp lý; Quản lý tốt môi trường ao nuôi giúp cho cua, cá sinh trưởng phát triển nhanh và khỏe mạnh; Cho cua ăn vừa đủ, tránh tình trạng thức ăn thừa gây ô nhiễm môi trường ao nuôi; Không cho cua ăn thức ăn tươi sống vì dễ đưa mầm bệnh vào ao nuôi qua con đường thức ăn.
Phòng địch hại: Làm rào chắn xung quanh ao nuôi thật kỹ, tránh các địch hại xâm nhập ăn cua lúc cua lột.
Cua thương phẩm - Ảnh: Thành Nguyên
6. Thu hoạch
Cua thương phẩm phải đạt 250 g/con trở lên, cá dìa đạt 150 g/con thì tiến hành thu hoạch. Ta có thể thu tỉa, cua thu bằng rập bắt cua, thu cá dìa bằng lưới kéo. Sau 5 tháng chúng ta tháo cạn thu toàn bộ cua và cá. Cua được giữ sống tránh gây thương tật, gãy sàng gãy que, làm giảm giá trị của cua.
Theo: Thủy Sản Việt Nam