Cá trê phi có tên khoa học là Clarias gariepinus là một loài cá da trơn thuộc họ Cá trê (Clariidae). Đây là giống cá có tốc độ sinh trưởng rất nhanh, thân hình lớn được nhập vào Việt Nam từ năm 1875 và nuôi thử nghiệm ở miền Bắc và dần dần được nuôi rộng khắp cả nước với chất lượng thịt thơm ngon và chế biến được nhiều món ăn nên được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi tình hình dịch bệnh gây cũng không ít khó khăn, khi cá bệnh hầu hết người nuôi sử dụng hóa chất và kháng sinh để điều trị bệnh và dẫn đến các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh. Do đó, sử dụng các chiết xuất từ thảo dược được xem là một phương pháp hiệu quả vừa tiết kiệm vừa an toàn sinh học đảm bảo sự thân thiện với môi trường.
Cây hương nhu trắng có tên khoa học là Ocimum gratissimum được trồng ở nhiều nơi trong cả nước. Nó có mùi thơm và lá của nó đã được sử dụng như một loại gia vị và trong y học cổ truyền do chứa các chất ancaloit, phenol, tinh dầu, peptide, flavonoid. Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu báo cáo rằng lá của cây này có một số hợp chất hóa học có đặc tính kháng khuẩn như như eugenol, linaol, methyl cinnamate, long não và thymol.
Cây hương nhu trắng. Ảnh: Rison Chumboor
Trong nghiên cứu hiện tại, chiết xuất lá hương nhu trắng được sử dụng cho cá trê phi để đánh giá hiệu quả của nó đối với hiệu suất tăng trưởng, sinh lý, chống oxy hóa và khả năng miễn dịch không đặc hiệu.
Nghiên cứu ứng dụng lá hương nhu trắng
Lá hương nhu trắng tươi được sấy khô ở nhiệt độ phòng và nghiền thành bột mịn . Sau đó, một mẫu 5 g được ly trích với 50 ml ethanol trong 6 giờ. Dịch chiết thu được được lọc qua giấy Whatman số 1 và được sấy khô ở nhiệt độ 45 ° C để thu được dịch chiết khô, và bảo quản ở −20 ° C cho đến khi sử dụng.
Cá có trọng lượng (10,7 ± 0,5 g) được cho ăn theo chế độ ăn 0, 5, 10, 15 g chiết xuất lá hương nhu trắng/kg chế độ ăn trong 12 tuần. Sau thử nghiệm cho ăn, cá tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh (Listeria monocytogenes) trong 14 ngày.
Kết quả
Hiệu suất tăng trưởng tức là trọng lượng cuối cùng, tăng trọng, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn ở nghiệm thức 12 g/kg đạt kết quả cao nhất. Hơn nữa, cá được cho ăn chế độ ăn giàu chiết xuất lá hương nhu trắng tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với cá ở nghiệm thức đối chứng.
Đồng thời, chiều dài và chiều rộng của hệ nhung mao đường ruột của cá được bổ sung chiết xuất lá hương nhu trắng có kích thước lớn hơn so với cá ở nghiệm thức đối chứng.
Tổng protein, albumin và globulin ở nghiệm thức 10- 15 g chiết xuất lá hương nhu trắng / kg tăng đáng kể. Hơn nữa, các hoạt động của aspartate aminotransferase và alanine aminotransferase, kiềm phosphatase, urê và creatinine đã tăng đáng kể khi tăng mức chiết xuất lá hương nhu trắng trong chế độ ăn. Chất chống oxy hóa và các biến miễn dịch được tăng cường đáng kể bằng cách bổ sung chiết xuất lá hương nhu trắng.
Ngoài ra, tỷ lệ tử vong của cá sau thử thách vi khuẩn là cao nhất ở những con cá được cho ăn chế độ kiểm soát (85%) trong khi đó, nghiệm thức có tỉ lệ cá chết thấp nhất ở nghiệm thức 15 g chiết xuất lá hương nhu trắng / kg (13,5%).
Kết quả từ nghiên cứu cho thấy rằng bổ sung chiết xuất lá hương nhu trắng đã tăng cường hiệu quả sử dụng thức ăn, chất chống oxy hóa và tăng cường miễn dịch không đặc hiệu ở cá trê phi với mức tối ưu 12 g / kg giúp cá tăng cường sức đề kháng chống lại bệnh do vi khuẩn L. monocytogenes gây ra.
Theo:tepbac.com